Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hứng thú hát tốt dân ca đối với học sinh Tiểu học

Dân ca phản ánh tình cảm tâm tư , nguyện vọng của người dân với gia đình, quê hương, đất nước , thậm chí phản ánh đời dống xã hội, lịch sử của thời kỳ đó. Trong bài hát“Lời Bác dặn trước lúc đi xa” nhạc và lời Trần Hoàn. Có đoạn “Lúc chia li, lời di chúc đơn sơ, Bác muốn non sông đinh ninh lời hẹn thề: Rằng đã yêu tổ quốc mình ,càng yêu thiết tha ...những ca khúc dân ca .Học sinh Tiểu học ở lứa tuổi từ 6 đến 11, đây là lứa tuổi rất nhạy cảm với Âm nhạc. Với nhận thức của học sinh tiểu học thì hát dân ca chiếm vị trí quan trọng trong nghệ thuật âm nhạc.

Nói tới dân ca là nói đến niềm tự hào về bản sắc văn hoá của dân tộc ta, trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử, âm nhạc dân gian nói chung và dân ca nói riêng đã khẳng định tinh hoa văn hoá đặc sắc, là linh hồn của dân tộc. Từ khi cất tiếng khóc chào đời, con người đã cảm nhận được âm điệu ngọt ngào trong lời ru tha thiết của mẹ, của bà qua những làn điệu ru con. Đến khi trưởng thành dân ca vẫn cùng con người trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động, trong chiến đấu, gắn bó với con người qua điệu hò kéo lưới, giã gạo, kéo pháo hay khúc hát giao duyên...

docx 15 trang SKKN Âm Nhạc 13/03/2025 60
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hứng thú hát tốt dân ca đối với học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hứng thú hát tốt dân ca đối với học sinh Tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hứng thú hát tốt dân ca đối với học sinh Tiểu học
 trực tiếp đến giọng hát, kỹ thuật hát của các em đó là luyện thanh (khởi động giọng). Khi dạy các bài hát thiếu nhi hoặc các bài hát nước ngoài, trong bước khởi động giọng, tôi thường sử dụng gam trưởng hoặc gam thứ của Âm nhạc phương Tây cho HS khởi động giọng.
Ví dụ:
 	Nhưng khi dạy hát dân ca, do sắc thái riêng của từng vùng miền, nên mỗi bài lại có một màu sắc riêng, và thường viết bằng thang âm ngũ cung, như Pha Son La Đô Rê . Vì thế việc sử dụng gam trưởng, thứ của phương Tây là không phù hợp. Do đó tôi thường sử dụng chính thang âm của từng bài làm mẫu âm khởi động. Thậm chí có bài tôi đã dùng giai điệu của bài hát làm mẫu để học sinh khởi động giọng. 
Ví dụ: Khi dạy hát bài “Chim sáo” dân ca Khơ – me (Nam Bộ) (sách giáo khoa Âm nhạc 4, trang 32), tôi đã sử dụng câu hát cuối là mẫu âm dùng để khởi động giọng: 
Việc sử dụng mẫu âm này vừa giúp học sinh bước đầu được nghe âm hưởngcủa bài hát dân ca, ngoài ra còn giúp các em được tiếp xúc với giai điệu để khi học bài hát dễ dàng hơn, nhanh hơn.
 Trong quá trình luyện thanh tư thế đứng của các em học sinh phải thẳng, 2 tay thả lỏng tự do như hình minh họa.
 Hình ảnh các em học sinh lớp 4D đứng luyện thanh
Giải pháp 4: Rèn luyện kỹ năng hát dân ca cho học sinh 
 	Hướng dẫn hát các từ có dấu luyến, nốt hoa mỹ, những chỗ ngân, nghỉ trong các bài dân ca.
Đa phần các bài hát dân ca có ca từ mềm mại, giai điệu nhẹ nhàng du dương nên trong bài hát hay có các từ có dấu luyến móc đơn, móc kép, nốt hoa mỹ. Khi gặp những bài này tôi hướng dẫn và làm mẫu cho các em (hát, đánh đàn) cho các em nghe để các em hiểu, có hiểu thì khi hát các em mới thể hiện được “chất” của bài dân ca miền đó.
Ví dụ 1: Khi dạy bài hát “ Con chim chích chòe” dân ca Nam Bộ (sách giáo khoa Âm nhạc 2, trang 14, bộ sách Kết nối Tri thức với Cuộc sống).
Bắt đầu từ khuông nhạc số 3, số 4 này từ (nằm, cả, cảm) dấu luyến móc kép tôi sẽ hát mẫu, dùng đàn đánh nốt có dấu luyến cho các em nghe 1 – 2 lần sau đó bắt nhịp cho các em hát.
Ví dụ 2: Khi dạy bài hát “L ý đất giống ” (sách giáo khoa Âm nhạc 5, trang 32)
Ở câu này từ ( gió ,trăng,nắng,đỏ,gánh, mới ,tinh, tính) có dấu luyến ,đen chấm dôi, tôi cũng sẽ hát mẫu và dùng đàn đánh cho các em nghe để các em hát rồi sau đó bắt nhịp cho các em hát. Các bài dân ca khác của các khối lớp tôi hướng dẫn tương tự.
 	Trên đây là 4 biện pháp cần chú trọng sử dụng mà tôi thường dùng trong các tiết dạy dân ca ở các khối lớp đã đem lại hiệu quả rất cao. Các bước còn lại như đọc lời ca, chia câu, dạy hát từng câu, củng cố...Tôi hướng dẫn như các bài hát thông thường. Với một vài ví dụ cụ thể cho từng khối lớp mà tôi đã trình bày ở trên thì bài dân ca nào cũng có thể áp dụng phương pháp này và không giới hạn ở một bài nào cả. Vì thế tôi đã áp dụng vào đối tượng học sinh của tôi các em rất thích khi được học dân ca, rất thích nghe dân ca hay nghe kể về dân ca. Đặc biệt trong các giờ dạy giáo án điện tử những bức tranh minh hoạ các vùng miền, những trích đoạn dân ca của các vùng miền liên quan đến bài dạy sẽ làm cho tiết học sinh động hơn, giúp các em hát tốt hơn, nhanh hiểu bài nhớ bài học lâu hơn. “Biện pháp nâng cao hứng thú hát tốt dân ca đối với học sinh Tiểu học” không những mở rộng thêm kiến thức về dân ca mà các em còn biết được một số kỹ thuật khi hát dân ca. Thông qua phương pháp này còn rèn luyện cho các em khả năng phán đoán các bài hát, kĩ năng vận động bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghe.
 	Hoạt động này cũng giúp học sinh tham gia tích cực trong quá trình học tập, tạo hứng thú khi tìm hiểu về các làn điệu dân ca, tích luỹ được vốn kiến thức về các vùng miền để bổ trợ cho các môn học khác
 III.2. Tính mới, tính sáng tạo 
Trong chương trình Âm nhạc ở Tiểu học, Học hát là nội dung trọng tâm, được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 5, đây cũng là phân môn học sinh yêu thích nhất. Phân môn hát có ba dạng bài là: Bài hát thiếu nhi Việt Nam, dân ca và các bài hát nước ngoài. Việc dạy hát dân ca cho học sinh tiểu học là rất khó so với dạy các bài hát thiếu nhi trong chương trình sách giáo khoa. Bởi mỗi bài dân ca trong chương trình đều gắn liền với đời sống sinh hoạt, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của một vùng, hoặc của đặc thù riêng một dân tộc, có cách nói, cách diễn đạt khác nhau giữa vùng này với vùng khác, từ thực tiễn đó đã trở thành động cơ để tôi tìm tòi khám phá, thử nghiệm bằng kinh nghiệm và năng lực nghiệp vụ của mình để tìm ra kinh nghiệm sư phạm, những phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù của dạy hát dân ca, giúp các em nhanh tiếp cận với văn hóa âm nhạc dân gian, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. 
Từ nhiều năm nay, Bộ giáo dục đã đưa chương trình dạy dân ca vào các trường học phổ thông từ cấp học Mầm non với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Do vậy, học sinh sớm được làm quen với các bài hát dân ca, nên khi bước sang Tiểu học, nội dung học hát này không còn lạ đối với các em. Theo đó, những điệu hò man mát xa khơi, những tiếng ru vời vợi trưa hè, những bài ca thấm đẫm tình đất, tình ngườiđã trở nên quen thuộc đối với nhiều học sinh, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách các em ngay từ nhỏ và cung cấp thêm những kiến thức ban đầu về kho tàng dân ca của Việt Nam. Học sinh được hát, được nghe các làn điệu dân ca và hiểu được rằng: Dân ca là sản phẩm tinh thần quý giá của ông cha để lại, từ đó các em càng phải trân trọng, giữ gìn, học tập, tiếp tục phát triển những vốn quý ấy, từ đó các em càng thêm yêu mến và tự hào về nhân dân ta, đất nước ta.hát dân ca không những góp phần gìn giữ và phát huy những bản sắc văn hoá của dân tộc, phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể mà còn giáo dục các giá trị thẩm mỹ, đạo đức, định hướng nhân cách cho học sinh, giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, bạn bèĐiều này rất quan trọng khi giảng dạy những kiến thức về địa phương. 
Qua những tiết hát dân ca, các em đã có những ấn tượng đẹp về âm nhạc dân gian, kích thích hứng thú học tập, ham tìm tòi học hỏi những cái hay, cái mới, những bài dân ca độc đáo của kho tàng dân ca Việt Nam.
Học sinh được phát huy tính sáng tạo bằng việc tự sáng tác lời ca mới cho bài dân ca. Có tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập, biết ngắm nhìn, biết lắng nghe và hưởng thụ những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống từ đó tâm hồn trí tuệ cũng ngày càng giàu hơn, đẹp hơn. Đồng thời phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về hát dân ca, làm nguồn cho các cuộc thi đạt nhiều kết quả cao do các cấp tổ chức.
- Giáo viên đã được tập huấn về chương trình âm nhạc mới 2018 theo kế hoạch của Phòng Giáo dục và của nhà trường, đã tổ chức dạy đúng phương pháp, đúng mục tiêu của từng bài học.Bản thân là giáo viên được đào tạo chuyên nghành âm nhạc và được trực tiếp tham gia giảng dạy âm nhạc từ nhiều năm ở trường Tiểu học. Được tạo điều kiện về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học. Học sinh yêu thích học môn âm nhạc. Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập.
- Bộ giáo dục đã đưa chương trình dạy dân ca vào các trường học phổ thông từ cấp học Mầm non với nhiều hình thức đa dạng, phong phú với chủ đề về miền dân ca, em yêu làn điệu dân ca. Do vậy, học sinh sớm được làm quen với các bài hát dân ca, nên khi bước sang Tiểu học, nội dung học hát này không còn lạ đối với các em. Theo đó, những điệu hò man mát xa khơi, những tiếng ru vời vợi trưa hè, những bài ca thấm đẫm tình đất, tình ngườiđã trở nên quen thuộc đối với nhiều học sinh, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách các em ngay từ nhỏ.
III.3. Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng, nhân rộng
 	 Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy việc áp dụng sáng kiến này vào thực tiễn giảng dạy ở các trường Tiểu học là rất cần thiết. Bởi vì học sinh Tiểu học còn nhỏ khả năng cảm thụ và thể hiện các ca khúc dân ca còn rất hạn chế. Vì vậy giáo viên cần rèn luyện thường xuyên cho học sinh trong các bài hát dân ca nhưng tránh để học sinh nhàm chán. Đây là giải pháp rất phù hợp cho những yêu cầu trên. Tuy nhiên để đạt được kết quả cao không phải trong một vài tiết học mà có được. Giáo viên phải có sự kiên trì bền bỉ nhận xét, động viên học sinh luyện tập. 
 	Ngoài ra người giáo viên phải hoà mình với học sinh, hiểu được đặc điểm tâm lí của từng học sinh, cũng như đặc điểm của từng lớp mà áp dụng những hình thức và phương pháp hướng dẫn khác nhau. Hơn nữa người giáo viên còn phải biết lựa chọn và áp dụng các phương pháp sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
 	Về phía bản thân, với một số phương pháp nêu trên, qua thực tế giảng dạy tại trường tiểu học Thị trấn tôi nhận thấy hiệu quả của các phương pháp này khá cao. Tuy nhiên, khi vận dụng những phương pháp này, quí thầy, cô có thể tuỳ cơ ứng biến sao cho phù hợp vói từng hoàn cảnh, từng đối tượng cụ thể để thu được kết quả tốt nhất. Và điều quan trọng là chúng ta cùng nhau xây dựng nên những phương pháp giảng dạy hay nhất, phù hợp nhất đối với bộ môn Âm nhạc.
	Qua quá trình thực nghiệm tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp mới: “Biện pháp nâng cao hứng thú hát tốt dân ca đối với học sinh Tiểu học” theo một hệ thống khoa học, kết quả thu được như sau:
	- Hiệu quả tiết dạy nâng lên rõ rệt, học sinh cảm thấy mạnh dạn, tự tin hơn khi hát và biểu diễn bài hát, có hứng thú học tập, yêu thích học môn âm nhạc hơn. Học sinh đã biết lắng nghe và cảm nhận được những bài hát dân ca, ngoài ra các bài hát trong chương trình học các em đã mạnh dạn và thể hiện rõ được sắc thái của bài hát. Các kiến thức cần truyền thụ được học sinh tiếp thu một cách nhẹ nhàng, sâu sắc, có sức hấp dẫn
 	- Học sinh có cơ hội học tập thể hiện năng khiếu âm nhạc, ca hát cũng như khả năng tiếp thu các kiến thức âm nhạc của mình trong các bài hát. Học sinh phần nào được giáo dục về thẩm mỹ, thái độ cảm thụ và thưởng thức âm nhạc.
Những bài dân ca trong chương trình học chính khóa cũng như những bài dân ca tăng cường trong những tiết dạy hát dành cho địa phương và những bước tôi dạy hát cho các em không quá khó, phù hợp với khả năng của các em, những bài khó hơn, quá sức của các em tôi tăng cường cho các em vào phần nghe nhạc, phần giới thiệu và củng cố nói về các bài hát cùng vùng miền.
Việc học tốt trong giờ chính khóa cũng góp phần nào giúp các em mạnh dạn tự tin hơn trong các hoạt động ngoại khóa do trường, địa phương và ngành tổ chức. Một số em lúc đầu chưa mạnh dạn, chưa tự tin nhưng đến nay các em đã không còn ngại ngùng khi đứng trước các bạn, các em tự tin. Chất lượng bộ môn được nâng lên rõ rệt.
Từ kết quả đạt trên đã đem lại cho tôi và các em lòng tự tin, sự hứng thú say mê trong giảng dạy học tập, từ đó tình cảm cô trò luôn được gắn bó.
III. 4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp.
 	a. Hiệu quả kinh tế: 
- Qua quá trình nghiên cứu và dạy thử nghiệm áp dụng giải pháp, bản thân tôi nhận thấy giải pháp đã thật sự phù hợp và mang lại hiệu quả đáng kể. Cụ thể đó là 
- Bằng phương pháp điều tra thông qua bảng tổng hợp ghi nhận tình hình học tập và khảo scủa 230 học sinh lớp bốn, Hai đã thu được kết quả khả quan. Có thể thấy rõ điều này qua một vài số liệu (được ghi nhận trong một tháng) như sau:
KHẢO SÁT LẦN 1
TRƯỚC KHI ÁP DỤNG GIẢI PHÁP
(-Tháng 9/2024)
KHẢO SÁT LẦN 2
SAU KHI ÁP DỤNG GIẢI PHÁP
(Tháng 12/2024)
* Học sinh hát dân ca tốt: 143/230. (Chiếm tỉ lệ 62,17%)
* Học sinh hát dân ca tốt: 197/230. ( Chiếm tỉ lệ 85,65%)
Tuy áp dụng phương pháp trên trong thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy tất cả các lớp đều hứng thú và tham gia sôi nổi vào tiết học âm nhạc nói chung và dân ca nói riêng. Hầu hết các em đều yêu thích dân ca, đã hát được dân ca, hiểu được về nội dung ý nghĩa của mỗi bài dân ca , mà tôi dạy cho các em.
 	b. Hiệu quả về mặt xã hội:
 	- Tỉ lệ học sinh hứng thú hát tốt các bài hát dân ca tăng lên lên rõ rệt. Đến lớp, những giờ học các em có vẻ hào hứng hơn, không khí lớp sôi nổi, tự nhiên hẳn lên, giờ học nhẹ nhàng hiệu quả hơn.
 	 - Sáng kiến này phục vụ thiết thực trong công tác giảng dạy nhất là công tác rèn kỹ năng đoc nhạc học sinh Tiểu học và cả ở các cấp học cao hơn các thao tác này vẫn có hiệu quả tối ưu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng với yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục hiện nay có sức lan toả giúp các em học sinh thêmm yêu làn điệu dân ca góp phần giữ gìn bảo vệ bản sắc dân tộc Việt Nam
c. Giá trị làm lợi khác:
Với những kinh nghiệm trên tôi đã thành công trong việc dạy hát và cung cấp thêm những kiến thức ban đầu về kho tàng dân ca của Việt Nam. HS được học hát, được nghe các làn điệu dân ca và hiểu được rằng: Dân ca là sản phẩm tinh thần quý giá của ông cha để lại, từ đó các em càng phải trân trọng, giữ gìn, học tập, tiếp tục phát triển những vốn quý ấy, từ đó các em càng thêm yêu mến và tự hào về nhân dân ta, đất nước ta.
Tất cả học sinh đều rất yêu thích và hào hứng học tiết Âm nhạc có bài hát dân ca. Đa số HS hát đúng giai điệu, hát đúng các tiếng hát luyến láy của bài hát, một số em năng khiếu còn biết thể hiện tình cảm của mình vào bài hát. 
Các em đã biết phân biệt được làn điệu dân ca của từng vùng miền qua nghe giai điệu và lời ca của các bài hát có sử dụng các từ đệm. Từ đó HS học tập sáng tạo hơn trong giờ học như: tự tìm tòi chuẩn bị các nhạc cụ gõ đệm phù hợp với bài hát hoặc tự sáng tạo những động tác múa, động tác biểu diễn vận động phụ họa phù hợp với nội dung bài dân ca được học. 
Dạy hát dân ca không những góp phần gìn giữ và phát huy những bản sắc văn hoá của dân tộc, phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể mà còn giáo dục các giá trị thẩm mỹ, đạo đức, định hướng nhân cách cho HS, giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, bạn bèĐiều này rất quan trọng khi giảng dạy những kiến thức về địa phương. 
Khi lên lớp tôi cảm thấy vững vàng tự tin hơn, có những sáng tạo linh hoạt trong các biện pháp tổ chức lớp học. Qua những tiết học hát dân ca, các em đã có những ấn tượng đẹp về âm nhạc dân gian, kích thích hứng thú học tập, ham tìm tòi học hỏi những cái hay, cái mới, những bài dân ca độc đáo của kho tàng dân ca Việt Nam.
	HS được phát huy tính sáng tạo bằng việc tự sáng tác lời ca mới cho bài dân ca. Có tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập, biết ngắm nhìn, biết lắng nghe và hưởng thụ những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống từ đó tâm hồn trí tuệ cũng ngày càng giàu hơn, đẹp hơn. Đồng thời phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về hát dân ca, làm nguồn cho các cuộc thi đạt nhiều kết quả cao do các
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đưa ra với kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy. Rất mong được sự đóng góp của Hội đồng thẩm định sáng kiến và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được áp dụng rộng rãi hơn, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Âm nhạc đặc biệt là hát dân ca trong các trường Tiểu học.
Tôi xin chân thành cám ơn ! 
 CƠ QUAN ĐƠN VỊ 	 TÁC GIẢ SÁNG KIẾN 
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 	 (Ký tên) 
 (xác nhận) 
 Phạm Thị Thu Hà 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_nang_cao_hung_thu_hat_tot_da.docx